Địa danh hành chính ở Tây Nam Bộ qua các thời kỳ lịch sử

Võ Nữ Hạnh Trang – Trường ĐH Đồng Nai 

Địa danh thực hiện chức năng cơ bản định danh sự vật, cá thể hóa đối tượng đồng thời thực hiện chức năng phản ánh. Rõ nét nhất là phản ánh hoạt động xã hội, trong đó có văn hóa tổ chức đời sống con người thể hiện qua bộ máy hành chính, cách sắp đặt các chức vụ nhằm đảm bảo sự vận hành một vùng miền, rộng hơn là một quốc gia nào đó.

Tính từ khi chúa Nguyễn đặt bộ máy cai trị lên vùng đất Tây Nam Bộ thế kỷ XVII, có thể thấy từng thời kỳ, từng chế độ thì cơ cấu tổ chức hành chính lại có sự thay đổi. Nhiều địa danh vẫn bảo lưu các thành tố này như một dấu ấn đặc sắc cho văn hóa tổ chức của con người ở Tây Nam Bộ trong suốt tiến trình lịch sử.

1. Giai đoạn nhà Nguyễn (1698 – 1867)

Để quản lý đất nước, mỗi quốc gia đều chú trọng việc thiết lập bộ máy chính quyền hoàn chỉnh và phù hợp với đặc điểm của thời đại đó. Nhà Nguyễn[1] cũng thế. Bộ máy chính quyền đã được xây dựng khá hoàn chỉnh nhằm giúp việc quản lý đất nước hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

Khởi điểm lịch sử văn hóa ở Nam Bộ có thể được tính từ năm Mậu Dần (1698) khi Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh tuân lệnh chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu vào làm kinh lược đất Cao Miên, chia Đông Phố thành các xã, thôn, phường, ấp để lập sổ điền, lập sổ đinh và định thuế. Ông lập thành hai huyện là Tân Bình, Phước Long với các chức danh như cai bộ (hành chính), ký lục (xét xử) và lưu thủ (quân sự). Đồng thời, Nguyễn Hữu Cảnh tiếp tục đẩy mạnh công việc khai hoang. Giai đoạn này, người Việt đã tập trung sinh sống khoảng hơn 4 vạn hộ (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.112). Đây là mốc xác lập chủ quyền chúa Nguyễn ở vùng Sài Gòn – Gia Định và cũng được xem là mốc khởi đầu để nghiên cứu văn hóa tổ chức của nhà Nguyễn ở Tây Nam Bộ.

Nhìn chung, cơ cấu bộ máy hành chính và quan lại cơ bản vẫn theo cách tổ chức chung của nhà Nguyễn thực hiện trong cả nước. Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh cho lập các đồn điền dựa trên việc huy động tội phạm, binh lính Nguyễn dưới sự chỉ đạo của những người “có vật lực”. Việc này nhằm tạo nguồn cung cấp lương thực và thúc đẩy kinh tế phát triển ở vùng đất Tây Nam Bộ. Nhắc qua lịch sử để thấy rằng chính những điều này đã tạo nên những dấu ấn riêng trong địa danh sẽ được chúng tôi làm rõ ở sau.

Về hành chính, thời vua Gia Long có các đơn vị từ thấp đến cao là xã, huyện, dinh, trấn. Một thời gian sau, xuất hiện cấp trung gian giữa xã và huyện được gọi là tổng. Trong khoảng thời gian 1831-1832, một cuộc cải cách hành chính lớn được vua Minh Mạng thực hiện đó là bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn thành tỉnh.

Trong bộ máy hành chính địa phương, Tổng đốc là người đứng đầu tỉnh, thường chuyên trách 1 tỉnh và phụ trách 2-3 tỉnh. Dưới Tổng đốc là Tuần phủ phụ trách 1 tỉnh. Ngoài ra, có hai ty giúp việc là Bố chánh sứ ti (chuyên trách hành chính, hộ khẩu, thuế khóa); Án sát sứ ti (chuyên trách luật pháp, an ninh). Phụ trách về quân sự có các chức danh  Đề đốcPhó Đề đốcLãnh binh, thấp hơn có Chưởng cơ, Vệ uý phụ tá. Để đảm nhận công việc liên quan đến giáo dục mỗi tỉnh có một chức quan gọi là Đốc học.  Quan lại trong triều đình chỉ phân tới cấp huyện, chính quyền bổ nhiệm các chức đầu tỉnh, quyền tự trị của dân được tính từ tổng trở xuống. Một tổng thường có vài làng (xã), quản lý tổng gồm hai người (cai tổng, phó tổng) do Hội đồng Kỳ mục cử ra.  Công việc chung là quản lý trị an, thuế khóa, lo việc đê điều.

Năm 1828, Minh Mệnh đổi chức Xã trưởng thành Lý trưởng, quy định mỗi xã đặt một Lý trưởng. Về cơ bản, cơ cấu hành chính, bộ máy quản lý dưới cấp tỉnh không thay đổi.

Có thể nói, việc thiết lập chính quyền Nam Kỳ lục tỉnh không chỉ mang ý nghĩa tách nhập và tổ chức bộ máy thông thường mà cho thấy vùng đất mới này đã hội nhập cùng cả nước về tổ diện tổ chức hành chính. Như thế, bộ máy tổ chức hành chính đã có sự thống nhất trên cả nước và điều này tạo nên sự vững vàng trong quá trình cai trị.

Những địa danh ở Tây Nam Bộ hiện còn phản ánh khá rõ dấu ấn của văn hóa tổ chức, cụ thể ở đây là bộ máy chính quyền của nhà Nguyễn từng thiết lập ở vùng đất này. Trước hết là những vị trí được triều đình phân ra tới huyện. Như ở Chợ Lách (Vĩnh Long) có rạch gọi tên là Bộ Pháo. Đây là cách nói rút gọn của “cai bộ tên Pháo”. Cai bộ là “quan hay (cai quản) về việc dân, chủ bộ đinh điền. Chức chế đời vua Gia Long, sau đến đời Minh Mạng cải là bố chánh sứ” (HTC) chuyên lo hộ khẩu, hành chính, thuế khóa. Ngoài ra, thời nhà Nguyễn từng có chức Giám hạt để “xem xét một hạt – đơn vị hành chính thời trước, lớn hơn phủ, huyện” (HP). Dấu ấn còn lại là tên chợ Giám Hạt ở Chợ Gạo (Đồng Tháp).

Huyện Tam Bình (Vĩnh Long) có một cái cầu nằm ở xã Tường Lộc và một cua quẹo mang tên Ông Đốc. Ông Đốc là cách gọi tắt chức danh đốc binh (chỉ huy một đội binh), đốc học (cai quản giáo dục ở một tỉnh), đốc phủ hay đốc phủ sứ (cai quản một quận) thời nhà Nguyễn. Địa danh này cũng còn được thấy ở huyện Thới Bình (Cà Mau) để chỉ một con sông. Sông này nói rút gọn thành sông Đốc hoặc còn gọi là Đốc Vàng. Tên gọi này còn gắn với sự kiện lịch sử khác là Đô đốc Nguyễn Văn Vàng, tướng của Nguyễn Ánh tử trận tại đây (NVL).

Cai quản một phủ – đơn vị hành chính lớn hơn huyện dưới thời phong kiến là quan tri phủ có hàm tòng tứ phẩm, có quyền cao nhất trong địa hạt, tri phủ. Chức danh này còn dấu ấn ở thành phố Vĩnh Long (Vĩnh Long) dùng để gọi tên một bến đò có tên Phủ Vĩ. Theo tư liệu điền dã của chúng tôi, đây là cách gọi tắt tri phủ từng trị nhậm ở vùng này có tên là Vĩ[2].

Trong bộ máy hành chính nhà Nguyễn, những chức quan mang yếu tố Hán Việt “Thủ” khá nhiều. Có lẽ bản thân yếu tố này hàm nghĩa là “giữ” cũng đã phản ánh vị trí của người đảm nhận công việc. Các địa danh hiện còn minh chứng khá rõ cho điều đó. Bến phà ở huyện Giồng Trôm (Vĩnh Long) hay cầu bắc qua rạch ở Chợ Gạo (Vĩnh Long) đều có tên gọi là Thủ Ngữ (hoặc Thủ Ngự). Thủ Ngữ có thể là “chức quan giữ cửa biển. Đồn thủ tại cửa biển” (HTC), cũng có thể Thủ Ngự là “quan chức trông coi một thủ, nhỏ hơn Tuần ty, giữ việc thu thuế. Đặt năm Minh Mạng thứ 13” (ĐVN). Ở Chợ Mới (An Giang) có một đồn canh (thủ) có tên gọi là Thủ Chiến Sai. Cũng bắt đầu bằng yếu tố “thủ”, ở Long Hồ (Vĩnh Long) có một cây cầu và một con rạch mang tên Thủ Thể. Có thể Thể là người mang chức danh thủ ngữ (giữ an ninh, thu thuế) hoặc thủ bổn (giữ địa bạ) hoặc thủ khoán (giữ tiền bạc) hoặc thủ sắc (giữ sắc phong Thành hoàng của làng) ở khu vực này.

Là một huyện của Long An thành lập năm 2006, Thủ Thừa còn là tên gọi một quận thành lập ngày 24-4-1957 gồm 2 tổng An Ninh Thượng và Cửu Cư Thượng. Ngoài ra còn là tên gọi thị trấn thành lập ngày 24-3-1979. Theo tìm hiểu của chúng tôi, Thủ là gọi tắt chức vụ thủ ngữ; Thừa là tên chính ông Mai Tự Thừa; Thủ Thừa nghĩa là “ông thủ ngữ tên Thừa”. Ông thủ ngữ Mai Tự Thừa được biết đến là người có công xây chợ, vét kinh cho người địa phương vào đầu thế kỷ XIX.

Huyện Cái Bè (Đồng Tháp) có một địa điểm gọi là Thiên Hộ. Đây là từ Hán Việt có nghĩa “nghìn hộ”. Thiên Hộ đồng thời là chức quan võ dưới thời Nguyễn, thường phong cho những người giàu, có đóng góp cho xã hội. Thiên Hộ ở đây là cách gọi tắt Thiên hộ Võ Duy Dương, sau là một anh hùng dân tộc chống Pháp ở Nam Bộ.

Hạ lưu sông Vàm Cỏ Đông (Tây Ninh), có một dòng sông mang tên Xá Hương. Theo tìm hiểu, Xá Hương là cách gọi tắt sai Mai Công Hương, một viên chức vận lương bằng thuyền, hi sinh do tự đục thuyền khi bị quân Xiêm cướp lương. Ông còn được dân xây miễu thờ và gọi là miễu Ông bần quỳ.

Bộ máy hành chính với những chức vị ở cấp dưới huyện thường do dân bầu. Hệ thống chức vụ thời nhà Nguyễn khá phong phú, phản ánh nhiều nét trong văn hóa tổ chức xã hội của người Việt. Trước hết, địa danh Cao Lãnh (Đồng Tháp) từng là tên gọi của quận, tỉnh lỵ và nay cũng là tên huyện, thị xã, thành phố. Địa danh này có nguồn gốc như sau: Ông Đỗ Công Tường, thường gọi là Lãnh, người miền Trung vào Nam lập nghiệp. Ông được bổ làm chức câu đương (chuyên giải quyết các xích mích), vì vậy dân thường gọi ông là Câu Lãnh. Ông có một khu vườn rộng, sau trở thành chợ và người dân quen gọi là chợ Câu Lãnh (sau lệch thành Cao Lãnh, theo hiện tượng biến âm).

Thời nhà Nguyễn có Hội đồng kỳ mục với khá nhiều chức danh nhằm mục đích vận hành tốt bộ máy hành chính ở địa phương. Đây là cơ quan quyền lực của làng xã, thành viên được lựa chọn trong số những người cao tuổi có uy tín, có bằng cấp hoặc phẩm hàm cao nhất. Mỗi kỳ mục được phân công phụ trách một lĩnh vực cụ t hể, nhưng mọi công việc đều do Hội đồng kỳ mục bàn bạc và quyết định tập thể thông qua các kì họp của Hội đồng. Cách tổ chức này cho thấy dấu ấn văn hóa Việt Nam rõ nét. Nhiều địa danh ở Tây Nam Bộ phản ánh bộ máy tổ chức hành chính như những địa danh bắt đầu bằng yếu tố “trùm”. Trùm nhằm chỉ người đứng đầu của làng, phe giáp hoặc phường hội thời phong kiến. Có nhiều loại trùm: trùm cả (đứng đầu hội đồng kỳ mục), trùm nghị (cố vấn hội đồng kỳ mục), trùm chủ (chịu trách nhiệm luật lệ, phân xử các vụ kiện), trùm thâu (thu thuế), trùm việc (các việc tạp dịch). Các địa danh mang yếu tố “trùm” có thể được thấy ở Mang Thít với rạch Trùm Định, rạch Trùm Yên thuộc Bình Minh (Vĩnh Long) hay giồng Trùm Đông (Đồng Tháp)…Các yếu tố sau là tên gọi của những người đảm nhiệm các chức vụ đó.

Ngoài ra, có thể kể đến tên gọi rạch mang tên Chủ Hộ ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) được giải thích: Chủ là từ “gọi tắt chức trùm chủ, chức vụ lớn thứ hai sau trùm cả trong Hội đồng kỳ mục dưới thời nhà Nguyễn”(NTA). Còn Hộ có lẽ là tên người. Trong tỉnh này còn một số địa danh cũng bắt đầu bằng yếu tố “Chủ” và được giải thích như trên là rạch Chủ Khanh ở Bình Minh) hay chợ Chủ Mạnh ở Vĩnh Long.

Ở Long Hồ (Vĩnh Long) có cồn Ông Khoán (Vĩnh Long) có rạch Khoán Tiết, tên gọi này xuất phát từ việc gọi tên người giữ chức danh thủ khoán (giữ sổ sách, giấy tờ, tiền bạc) trong Hội đồng kỳ mục.

TNB còn có khá nhiều địa danh liên quan đến chức vụ bang biện – một chức thư ký trong làng thời nhà Nguyễn. Đến thời Pháp thuộc chức này vẫn còn nhưng nhiệm vụ lại khác biệt như cách giải thích về cầu Bang Biện ở Lai Vung (Đồng Tháp) là “chức phụ việc. Có bang biện tỉnh vụ, bang biện phủ vụ, huyện vụ; bang biện đội, bang biện tổng,v.v.” (HTC). Các địa danh tương tự có thể kể đến là cầu Biện Gấm (Cà Mau), kinh Biện Nhị (Cà Mau)…

Điều Bát là tên gọi một cái chợ ở Vĩnh Long, điều bát chính là chức quan lo việc điều khiển binh lính. Nguồn gốc tên gọi chợ là do chợ ở gần lăng của Điều bát nhung vụ Nguyễn Văn Tồn, từng giữ chức này dưới thời Gia Long (VHS). Còn tên gọi chợ Đình Thung (Cần Thơ- Đồng Tháp) lại được lý giải là cách gọi ông Cai đình Thung, người lập chợ. Cai đình là “chức lớn trong làng hay về việc đình miễu, yến hội” (HTC). Lúc đầu ngôi chợ mang tên này. Nhưng vì vị trí ngôi chợ nằm phía trong chợ Rạch Gầm nên người ta quen gọi là chợ Giữa và từ đó tên chợ Đình Thung không còn sử dụng nữa (NTKO). Tên gọi ụ[3] Ông Cai Việc ở Bến Tre cũng là cách để gọi tên một ông cai trong quân đội tên Trần Văn Hạc, người có công giúp Nguyễn Ánh, được Gia Long cho hưởng hoa lợi từ Hàm Luông đến hải khẩu (VHS). Hay như lộ Mả Thủ Chỉ thuộc Tam Bình (Vĩnh Long) chính là tên gọi mộ ông làm chức vụ Thủ chỉ – một “chức việc làng đứng đầu giấy, đầu bộ” (HTC).

Một điểm đáng chú ý là các địa danh ở TNB còn phản ánh cách quản lý của nhà nước phong kiến về ruộng đất, thuế khóa. Như ở Tân An (Tây Ninh) có một địa điểm có tên Châu Phê. Địa danh này được giải thích như sau: Châu Phê là “phê bằng bút đỏ”, vì nơi đây năm 1705, tướng Nguyễn Cửu Vân cho quân khẩn hoang. Năm 1715, con ông là Nguyễn Cửu Triêm xin chúa Nguyễn cấp cho 1 khu làm “quan điền biệt thực” (ruộng công thu thuế riêng) và chúa chấp thuận. Khu đất này gọi là ruộng Châu Phê, diện tích 31 mẫu, 1 sào, 9 thước (TP-NTM). Đặc biệt, với địa danh Công Điền (ruộng của nhà nước) vừa dùng để gọi một cái cồn ở Mỹ Tú (ST), một cù lao ở Trà Vinh (Vĩnh Long), một con kênh ở Kế Sách (Vĩnh Long). Theo cách giải thích chung, những địa điểm này nằm trong trong khu ruộng của nhà nước phong kiến (công điền) nên mang tên trên. Huyện Cai Lậy (Đồng Tháp) có khu vực mang tên Đồng Quan. Tên gọi này có nghĩa là “cánh đồng của quan”. Cánh đồng này do ông Lê Phước Tang khẩn hoang nhưng vì có con chống Nguyễn Ánh nên bị tịch thu, cấp cho gia đình quan Tiền quân Tôn Thất Hội làm của hương hỏa (TNT). Địa danh huyện Tam Nông ở tỉnh Đồng Tháp lại cung cấp cho chúng ta một thông tin về cách thu thuế ruộng của chính quyền: Tam Nông là “phép thu thuế ruộng, chia dân cày ra làm ba hạng: thượng nông, trung nông, hạ nông, xem sức cày được nhiều ít mà đánh thuế” (ĐDA). Đây là điều đáng chú ý vì “Cho đến 1698, tức là trước khi có tổ chức chính quyền của chúa Nguyễn thì đất đai khai phá được đều thuộc sở hữu của lưu dân khai hoang dưới hình thức sở hữu nhỏ tư nhân” (Trần Thị Thu Lương, 1994, tr.33).

Nhìn chung, thông qua các địa danh, những dấu ấn về văn hóa tổ chức xã hội thời Nguyễn thể hiện khá rõ. Một điểm mà chúng tôi nhận ra sau khi khảo sát là trong số các địa danh gắn với bộ máy hành chính nhà Nguyễn thì những chức vụ do triều đình bổ nhiệm thường ít có dấu ấn hơn là những chức vụ do bộ máy địa phương cử ra.

2. Giai đoạn thuộc Pháp (1867 – 1945)

Bắt đầu xâm chiếm Việt Nam năm 1858, đến năm 1867 sau khi chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam Bộ, Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp. Như vậy, đến lúc này, thực dân Pháp xem như đã hoàn thành công việc xâm lược và bước đầu thiết lập bộ máy chính quyền của mình nhằm dễ bề cai trị. Dấu ấn văn hóa tổ chức xã hội thời thuộc Pháp lại tiếp tục được phản ánh qua địa danh ở Tây Nam Bộ.  Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực chia thành “hạt” (còn gọi là “địa hạt”, “hạt tham biện” hay “tiểu khu”), sau đó “hạt” đổi tên gọi thành “tỉnh”. Từ năm 1900, Nam Kỳ chia thành ba miền: Đông (Bà Rịa, Thủ Dầu MộtTây NinhBiên Hòa); TrungChợ Lớn,  Gò CôngGia Định, Tân AnVĩnh Long, Mỹ ThoBến TreSa Đéc, Trà Vinh); Tây (Bạc Liêu, Cần ThơChâu ĐốcRạch GiáSóc Trăng, Long XuyênHà Tiên). Trật tự bộ máy tính từ cao đến thấp là tỉnh (province), tổng (canton), làng (village), ấp (hemeau). Thập niên 1910, có thêm cấp quận (circonscription), cơ sở phái viên hành chính (délégation administrative); đứng đầu là Chủ quận (Chef de la circonscription) và Phái viên hành chính (Délégué administratif). Cùng với đó là “Sử dụng bọn quan lại, địa chủ, cường hào để thu thuế, bắt phu, bắt lính và đàn áp nhân dân lao động” (Hồ Sơn Diệp, 2003, tr.13).

Bên cạnh xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền, Pháp thiết lập ở Nam Kỳ chế độ trực trị vì đây là nơi giàu tài nguyên thiên nhiên. Để thực hiện, Pháp phát triển giao thông thủy ở bờ Nam Sông Hậu, mục đích thông qua hệ thống kênh nối với các sông lớn để hình thành hệ thống giao thông liên hoàn. Ngoài ra, tiến hành nạo vét các kênh lớn, mở rộng các kênh rạch khu vực giữa sông Tiền – sông Hậu. Song song, Pháp cho phát triển đường sắt, mở hơn 3.000 km đường bộ nối các địa phương trong khu vực để thuận lợi phát triển kinh tế.

Về bộ máy chính quyền địa phương, Pháp tạo ra sự ngăn cắt lĩnh vực văn hóa và hành chính. Đó là lý do những người trong Hội đồng kì mục không làm việc ở đình mà có một trụ sở riêng, không được tham gia các lễ hội truyền thống như trước. Chính quyền địa phương dưới thời Pháp thuộc cơ bản có các chức danh tương tự thời nhà Nguyễn nhưng quy định chặt chẽ hơn như Hương Cả; Câu đương; Thủ Chỉ; Thủ Bộ; Hương Chủ; Hương lão; Hương sư; Hương trưởng; Hương Chánh; Hương Quản; Hương Hào; Hương Bộ Thân, Thôn trưởng [4]. Hương Cả là chức vụ cao nhất trong hội đồng này mà theo cách gọi của thời Pháp đây là Ban Hội tề. Tương tự thời Nguyễn, muốn làm các chức vụ này “Phải hội đủ điều kiện: có đứng bộ đất, ông cha có của, xuất thân quan lại, đỗ đạt hoặc từng đứng ra lập làng” (Sơn Nam, 1997, tr.68).

Các địa danh hiện nay ở Tây Nam Bộ phản ánh gần như đầy đủ các chức vụ thuộc bộ máy hành chính Pháp thuộc. Có thể kể đến rất nhiều địa danh bắt đầu bằng yếu tố “hương”. Chợ Hương Điểm ở Giồng Trôm (Vĩnh Long) là một ví dụ. Hương Điểm là cách gọi ngắn gọn Hương chủ Trần Văn Điểm, người lập chợ. Hương chủ đơn giản được hiểu là “chức lớn trong làng” (HTC). Hay như Thạnh Trị (Vĩnh Long) có một cây cầu mang tên Hương Hào Đẩu. Đây là cách gọi viên chức lo việc giữ an ninh trong làng, tên Đẩu. Với cùng tên gọi Hương Sư, cây cầu ở Châu Thành (Vĩnh Long) và con rạch ở Thạnh Phú (Vĩnh Long) là cách gọi để chỉ một vị trí trong Ban Hội tề là người chuyên lo về việc giáo dục, nói đơn giản “thầy làng cũng là chức lớn” (HTC). Hương sư cũng còn được gọi là hương giáo, hương chánh. Cụ thể hơn, ở Vĩnh Thuận (An Giang) có con kinh gọi là Hương Sư Bính, theo tìm hiểu Hương Sư Bính là điền chủ tên Bính, làm chức Hương sư tổ chức đào kinh. Đặc biệt, cây cầu bắc qua sông Tổng Châu, nối xóm Tổng với đường đi Gò Công (Đồng Tháp) mang tên Hương Lễ. Tên gọi này được lý giải: Hương Lễ vốn là “chức coi về lễ phép trong làng” (HTC). Trong các tài liệu về bộ máy hành chính nhà Nguyễn hay trong quy định của chính quyền Pháp năm 1904, cụ thể hơn, dựa vào Nghị định tháng 10.1927 qui định Hội đồng Hương chức Hội tề (ban Hội tề) của Toàn quyền Đông dương, có thể thấy công bố 12 chức vụ nhưng chúng tôi cũng không tìm thấy chức vụ này. Vì vậy, cách giải thích trên dường như cũng cần phải xem lại. Theo chúng tôi, trường hợp này tương tự địa danh Hương Điểm ở trên. Địa danh chợ Tham Thu ở Chợ Gạo (Đồng Tháp) cũng được giải thích là ông Tham trưởng tên Thu lập chợ (NVC). Không thấy chức Tham trưởng trong từ điển cổ. Có lẽ là Hương tham, là “chức lớn trong làng”(HTC). Theo chúng tôi, cách lý giải này của tác giả là hợp lý.

Cũng để chỉ vị trí Hương chủ, vàm Chủ Ngọc ở Bạc Liêu được lý giải theo hai hướng là Hương chủ (đứng sau hương cả) hoặc chủ điền (người sở hữu nhiều ruộng) tên Ngọc (HXT). Tên gọi rạch Cả Cầu huyện Trà Ôn (Vĩnh Long) là cách nói tắt của chức Hương cả (hương trưởng) tên Cầu, đứng đầu Ban hội tề. Việc gọi tên kênh Quản Lộ ở huyện Mỹ Tú (Vĩnh Long) hay quận, tỉnh lỵ của tổng An Xuyên (nay là Cà Mau) có tên gọi Quản Long, cầu ở huyện Đầm Dơi (Cà Mau) tên Quản Ngôn cũng được giải thích: Quản Lộ là hương quản tên Lộ (LMT). Quản Ngôn là “hương quản tên Ngôn”. Hương quản là “chức coi sóc các việc trong làng, nhất là việc tuần phòng” (HTC).

Huyện Bình Tân (Vĩnh Long) có con kênh đào khoảng năm 1890-1900 có tên Câu Dụng. Đây là từ gọi tắt chức câu đương, “chức coi sóc các việc trong làng, phụ trách việc chấp hành luật lệ và được phép tham gia giải quyết các vụ khiếu hiện cùng Ban hội tề”; còn Dụng là tên người (NTA). Ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) có cầu Bộ Bính. Bộ là từ gọi của chánh lục bộ, chức vụ trông coi hộ tịch, dịch bịnh, nằm trong Ban hội tề thời Pháp thuộc (NTA); Bính có lẽ là tên người. Ở tỉnh này còn có các địa danh tương tự như cồn Bộ Hơn (Tam Bình); kênh Bộ Tới (Long Hồ); kênh Bộ Xưa (Trà Ôn). Vàm Bộ Búi ở tỉnh Cà Mau cũng xuất phát từ lý do như trên. Tương tự, khá nhiều địa danh được xem là có nguồn gốc từ các chức vụ trong bộ máy chính quyền địa phương như rạch Tuần Bảy, Tuần Hớn ở Ngã Năm (Vĩnh Long) là để chỉ “ông cai tuần tên Bảy” “ông cai tuần tên Hớn”. Cai tuần là “chức việc nhỏ hay việc tuần phòng trong làng” (HTC). Hay như kênh Phó Chấp ở Bình Minh (Vĩnh Long), ấp Phó Quế ở Long Xuyên (An Giang) là để chỉ trong vùng có người có chức danh phó (xã, thôn) tên Chấp, tên Quế dưới thời Pháp thuộc. Kênh Phó Xã ở Lấp Vò, Xã Khánh (Vĩnh Long) hay cầu Xã Xiểng nằm trên tỉnh lộ 933 là cách gọi chức vụ trưởng, phó xã kèm theo tên người.

Với bộ máy chính quyền cấp huyện trở lên, tên gọi các chức vụ có lúc như thời nhà Nguyễn, có lúc thay đổi cho phù hợp cách nhìn nhận và mục đích cai trị của người Pháp. Ở đây có thể phân thành hai loại địa danh. Một là những địa danh phản ánh các chức vụ mới xuất hiện hoặc phổ biến trong chính quyền thuộc Pháp. Hai là các địa danh phản ánh những chức vụ liên quan lĩnh vực chính trị quân sự.

Cầu Hội Đồng Chánh ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) nhằm để chỉ nhân vật tên Chánh có chân trong hội đồng hàng tỉnh/thành/quận. Tương tự, lộ Hội Đồng Mẹo (Vĩnh Long) hay cầu Hội Đồng Nhân (Vĩnh Long) cũng để nhằm chỉ những người mang chức vụ này ở trong vùng. Cũng là chức tri huyện nhưng nếu dưới thời nhà Nguyễn chức tri huyện là thực quyền thì dưới thời Pháp thuộc, huyện hàm không có thực quyền, người có tiền có thể mua chức. Tên gọi kênh Huyện Hàm ở Bình Tân (Vĩnh Long) là một ví dụ tiêu biểu về chức này. Nếu tên gọi rạch Phán Diện ở Châu Đốc (An Giang) nhằm chỉ ông thông phán tên Diện thì tên gọi rạch Ông Tham ở Vĩnh Long (Vĩnh Long) lại là cách gọi chung cho chức danh tham biện hay tham tá, viên chức giúp việc ở tòa bố chính. Ngoài ra, tên kênh Lục Sự huyện Châu Thành (Đồng Tháp) chỉ một chức gọi là lục sự làm ở tòa án chuyên lo việc giấy tờ, sổ sách thời Pháp (HP); rạch Thầy Ký ở Bình Minh (Vĩnh Long) là cách gọi tắt Thầy ký lục, “viên chức phụ trách việc hành chính và lương bổng trong dinh tham biện thời Pháp thuộc” (NTA).

Bên cạnh bộ máy hành chính, bộ máy quân sự của thực dân Pháp cũng được tổ chức lại với nhiều chức danh có thể là mới, có thể được giữ nguyên hoặc thay đổi tên gọi. Sông Bảy Háp và sông Gành Hào (Cà Mau) được nối với nhau bởi dòng kinh mang tên Đội Cường. Thực chất Đội là từ gọi tắt chức cai đội hoặc đội trưởng dưới thời nhà Nguyễn (cai quản 50 – 60 binh lính). Cường chính là tên người. Theo tìm hiểu của chúng tôi, đây là tên gọi xuất hiện từ thời Pháp. Như thế đội Cường được hiểu là người cai quản một tiểu đội trong quân đội Pháp là phù hợp.

Ở Long Hồ (Vĩnh Long) có rạch Bếp Đặng và Đầm Dơi (Cà Mau) có cầu mang tên Bếp Giám. Sở dĩ có địa danh bắt đầu bằng yếu tố “bếp” này là vì đó là cách gọi của một cấp bậc trong binh đội. Do đó có thể hiểu Bếp Đặng là “binh nhất tên Đặng”. Bếp Giám là “binh nhất tên Giám”. Rạch Ông Cai Việc (Vĩnh Long) là cách gọi tắt của cai vệ, chức này trong binh đội ở trên bếp nhưng lại dưới đội. Tên gọi này nhằm chỉ cai vệ Trần Văn Hạc.

3. Giai đoạn từ năm 1945 đến nay

Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền mới được thành lập. Từ tháng 9 năm 1945, quân Pháp dần dần chiếm lại các tỉnh Nam Kỳ và tạo lập lại bộ máy thống trị cũng như xây dựng chính quyền tay sai thân Pháp. Do đó, giai đoạn 1945-1954 tồn tại song song chính quyền tay sai do thực dân Pháp dựng nên và Việt Nam dân chủ cộng hòa. Giai đoạn này đã bãi bỏ hai cấp là tổng và huyện, các làng gọi là “xã”, dưới các xã vẫn gồm các ấp trực thuộc như cũ. Tháng 3 năm 1948, Sắc lệnh số 148-SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành quy định bãi bỏ “phủ”, “châu”, “quận”, dưới cấp tỉnh và trên cấp xã gọi là “huyện”.

Giai đoạn 1954-1975, vùng Tây Nam Bộ được gọi là Tây Nam Phần. Sau năm 1956, các đơn vị hành chính dưới tỉnh được sắp xếp từ dưới lên như sau: ấp, xã, tổng, quận, tỉnh. Từ năm 1962 đến năm 1965 bỏ cấp tổng, xã trực thuộc quận. Đầu năm 1976, “quận” cũng được bãi bỏ và lấy danh xưng “huyện” thay thế (“quận” và “phường” dùng để gọi các đơn vị hành chính tương đương ở một số thành phố). Cách tổ chức và tên gọi như vậy duy trì đến ngày nay.

Theo Nghị quyết 60/NQ-TW ngày 12/04/2025 công bố danh sách sáp nhập tỉnh, thành phố trên cả nước về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh nguyên tắc toàn bộ chính quyền sẽ chỉ có 3 cấp là cấp chính phủ, cấp tỉnh, thành phố và cấp phường, xã. Về bộ máy chính quyền địa phương, mô hình mới chỉ có 2 cấp là cấp tỉnh, thành phố và cấp phường, xã để đảm bảo sự tinh gọn và hiệu quả trong điều hành, hoạt động. Theo đó, cấp tỉnh, thành phố có tính chiến lược, lập kế hoạch và thực thi các nhiệm vụ lớn. Các cấp xã, phường sẽ thực hiện các nhiệm vụ có tính tác vụ hàng ngày, hành chính. Về thủ tục hành chính, những thủ tục hành chính ở cấp huyện sẽ do cấp xã trực tiếp thực hiện. Chuyển tiếp việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã mới sau khi bỏ cấp huyện đảm bảo hoạt động liên thông, thông suốt, không bị gián đoạn công việc, không bị chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót nhiệm vụ, ảnh hưởng đến nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp.

Theo Nghị quyết 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh của Quốc hội và Quyết định số 759/QĐ-TTg ngày 14/04/2025 phê duyệt đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Sau khi sắp xếp các tỉnh Tây Nam Bộ thì tỉnh Tây Ninh hợp nhất giữa Tây Ninh và Long An có diện tích tự nhiên là 8.536,44 km2, quy mô dân số là 3.254.170 người. Sau khi sắp xếp, tỉnh Tây Ninh có 96 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 82 xã và 14 phường. Thành phố Cần Thơ sáp nhập thêm 2 tỉnh Sóc Trăng và Hậu Giang có diện tích tự nhiên là 6.360,83 km2, quy mô dân số là 4.199.824 người. Tỉnh Vĩnh Long sáp nhập thêm tỉnh Bến Tre và Trà Vinh có diện tích tự nhiên là 6.296,20 km2, quy mô dân số là 4.257.581 người. Sau khi sắp nhập đơn vị hành chính cấp xã theo Nghị quyết số 1687/NQ-UBTVQH15, tỉnh Vĩnh Long có 124 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 105 xã và 19 phường. Tỉnh Đồng Tháp hợp nhất giữa Tiền Giang và Đồng Tháp có diện tích tự nhiên là 5.938,64 km2, quy mô dân số là 4.370.046 người.  Sau khi sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Đồng Tháp vào năm 2025, tỉnh này có tổng cộng 102 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 82 xã và 20 phường. Tỉnh Cà Mau hợp nhất giữa Cà Mau và Bạc Liêu có diện tích tự nhiên là 7.942,39 km2, quy mô dân số là 2.606.672 người. Sau khi sắp xếp, tỉnh Cà Mau có 64 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 55 xã và 09 phường. Tỉnh An Giang hợp nhất giữa An Giang và Kiên Giang có diện tích tự nhiên là 9.888,91 km2, quy mô dân số là 4.952.238 người. Tỉnh An Giang có 102 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 85 xã, 14 phường và 3 đặc khu; trong đó có 79 xã, 14 phường, 3 đặc khu hình thành sau sắp xếp

Sự thay đổi về địa giới hành chính sau sáp nhập không chỉ dẫn đến sự thay đổi lớn về diện tích, quy mô các tỉnh, thành mà còn mở ra sự thay đổi về tiềm năng phát triển ở tất cả các lĩnh vực trong tương lai. Có thể nói, việc sáp nhập tỉnh, sáp nhập xã, bỏ cấp huyện ở các tỉnh miền Tây cũng như trên cả nước là một quyết định có tính “mở”, dự đoán khả năng phát triển toàn diện, từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, xã hội.

————————————-

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Tấn Anh. (2008). Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long. Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội & nhân văn TP HCM.
  2. Nguyễn Thị Ngọc Bích. (2008). Khía cạnh văn hoá của địa danh ở tỉnh Đồng Tháp. Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn TP. HCM
  3. Nguyễn Thị Mỹ Linh (chủ nhiệm). (2006). Một số đặc điểm cấu thành địa danh ở Bến Tre. Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn TP. HCM
  4. Nguyễn Thị Kim Phượng. (2009). Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre. Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường ĐHSP TP.HCM.
  5. Nguyễn Thị Kiều Oanh. (2011). Những đặc điểm của địa danh tỉnh Tiền Giang. Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường ĐHSP TP.HCM.
  6. Trần Ngọc Thêm (cb). (2013). Văn hóa người Việt vùng TNB. TP.HCM: Văn hóa – Văn nghệ.
  7. Trần Thị Thu Lương. (1994). Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ. TP.HCM.
  8. Trịnh Hoài Đức. (1820). Gia Định thành thông chí. Nguyễn Tạo dịch 1972. Sài Gòn: Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa.
  9. Võ Nữ Hạnh Trang(2020), Địa danh Tây Nam Bộ dưới góc nhìn Văn hoá học. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn TP. HCM.

[1] Nhà Nguyễn thường được tính bắt đầu từ năm 1802 với vị vua đầu tiên là Gia Long. Ở đây, để thuận tiện trong trình bày, chúng tôi sử dụng cách gọi nhà Nguyễn để chỉ cả giai đoạn các chúa Nguyễn.

[2] Tư liệu điền dã tại Vĩnh Long năm 2013.

[3] Nơi sơn sửa tàu ghe

[4] Chúng tôi gặp khó khăn trong quá trình phân loại, bởi bộ máy tổ chức thời nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp có những chức danh tương tự nhau. Để tránh sự trùng lặp chúng tôi tham khảo thêm các tài liệu hiện có cùng tư liệu điền dã để xác định thời điểm ra đời địa danh để phân loại phù hợp, dù rằng chỉ mang tính tương đối. Những địa danh chưa tìm được thời điểm xuất hiện chúng tôi tạm phân loại chủ quan dựa trên hiểu biết còn hạn chế của bản thân.